Sự nghiệp quân sự Yitzhak Rabin

Palmach

Năm 1941, trong khi được huấn luyện thực tập tại kibbutz Ramat Yohanan, Rabin gia nhập nhánhPalmach của Haganah, dưới ảnh hưởng của Yigal Allon. Chiến dịch đầu tiên ông tham gia là hỗ trợ cuộc xâm lược Liban của Đồng Minh, khi ấy do các lực lượng Vichy Pháp kiểm soát (cũng trong chiến dịch này Moshe Dayan mất một mắt) vào tháng 6 tháng 7 năm 1941. Sau khi chiến tranh chấm dứt mối quan hệ giữa Palmach và chính quyền Anh trở nên căng thẳng, đặc biệt với sự đối xử với cuộc di cư Do Thái. Tháng 10 năm 1945 Rabin chịu trách nhiệm lập kế hoạch và sau này đã thành công trong việc thực hiện một chiến dịch giải phóng những người di cư đang bị giam tại trại giam giữ Atlit cho những người Do Thái di cư bất hợp pháp. Trong Black Shabbat, một chiến dịch lớn của Anh chống lại các lãnh đạo Tổ chức Do Thái tại Vùng đất Israel, Rabin đã bị bắt và giam cầm trong năm tháng. Sau khi được thả ông trở thành chỉ huy của tiểu đoàn Palmach thứ hai và lên nắm chức vụ Sĩ quan Chỉ huy Chiến dịch của Palmach tháng 10 năm 1947.

Các lực lượng phòng vệ Israel (IDF)

Trong cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Rabin đã chỉ huy các chiến dịch của Israel tại Jerusalem và chiến đấu với quân đội Ai Cập tại Negev.Trong thời gian khởi đầu cuộc chiến ông là chỉ huy lữ đoàn Harel chiến đấu trên đường tới Jerusalem từ đồng bằng ven biển, gồm cả Israel "Con đường Miến Điện", cũng như nhiều trận đánh tại Jerusalem, như bảo vệ sườn phải của thành phố bằng cách tái chiếm kibbutz Ramat Rachel.

Trong thời gian cuộc ngừng bắn lần thứ nhất ông tham gia vào cuộc tranh luận giữa IDF và Irgun trên bãi biển Tel Aviv như một phần của Vụ việc Altalena. Trong giai đoạn sau đó ông là phó chỉ huy Chiến dịch Danny, trong đó các thành phố RamleLydda đã bị chiếm, cũng như sân bay chính tại Lydda. Sau khi chiếm giữ hai thị trấn đã có một cuộc di cư của người dân Ả Rập tại đó và chỉ còn vài trăm trong số 50,000 tới 70,000 dân còn ở lại[4].[4]

Chiến dịch Danny là chiến dịch ở tầm vóc lớn nhất cho tới khi đó và nó liên quan tới bốn lữ đoàn IDF. Khi ấy ông là Chỉ huy các Chiến dịch Mặt trận phía Nam và tham gia vào các trận đánh lớn chấm dứt xung đột tại đó, gồm cả Chiến dịch YoavChiến dịch Horev.

Đầu năm 1949 ông là một thành viên của phái đoàn Israel tham gia các cuộc đàm phán hoà bình với Ai Cập được tổ chức trên đảo Rhodes. Kết quả của cuộc đàm phán là Thoả thuận Hoà bình năm 1949 chấm dứt sự thù địch chính thức của cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948. Sau cuộc tổng động viên ở cuối cuộc chiến ông là (cựu) thành viên cao cấp nhất của Palmach còn lại trong IDF.

Năm 1964 ông được Levi Eshkol, người thay thế David Ben Gurion, chỉ định làm Tham mưu trưởng Các lực lượng Phòng vệ Israel (IDF), và giống như ông, Levi Eshkol cũng từng giữ chức vụ Thủ tướngBộ trưởng Quốc phòng. Bởi Eshkol không có nhiều kinh nghiệm quân sự, Rabin được tự do hành động khá lớn. Dưới sự chỉ huy của ông, IDF đã giành thắng lợi trước Ai Cập, SyriaJordan trong cuộc Chiến tranh sáu ngày năm 1967. Sau khi Thành cổ Jerusalem bị IDF chiếm, Rabin nằm trong số những người đầu tiên tới thăm, và có một bài phát biểu nổi tiếng trên Núi Scopus, tại Đại học Hebrew. Trong những ngày dẫn tới cuộc chiến, có thông tin rằng Rabin đã bị suy nhược thần kinh và không thể làm việc.[5] Sau giai đoạn ngắt quãng ngắn ngủi này, ông lấy lại toàn quyền chỉ huy IDF.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Yitzhak Rabin http://www.cnn.com/WORLD/9511/rabin/umbrella/index... http://www.isracast.com/transcripts/021105a_trans.... http://info.jpost.com/1998/Supplements/Rabin/7.htm... http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=940... http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9C0... http://www.otn.com/netking http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/artic... http://www.yitzchakrabin.com/ http://news.walla.co.il/?w=//803587/@@/item/printe... http://www.knesset.gov.il/process/docs/egypt_inter...